bán bàn thờ gia đình đẹp

VỀ ThĂm CỤ TrẠng TrÌnh - NguyỄn BỈnh KhiÊm 8

  • Thread starter Những bài viết của dienban Latest Topics
  • Ngày gửi
N

Những bài viết của dienban Latest Topics

Guest
#1
VỀ THĂM CỤ TRẠNG TRÌNH - NGUYỄN BỈNH KHIÊM 7


Phạm vũ Hội

Ngày đầu xuân 2010- Canh Dần-
Phú luận về Kinh Dịch

Người Việt ai cũng nghe nói tới Kinh Dịch? Một triết học cổ Phương Đông. Nguyễn Thiếu Dũng cho rằng vị sứ giả hiển hiện trên trống đồng thuần Việt. Theo Ngô Tất Tố biên khảo dịch từ sách Tàu- thì Kinh Dịch có từ Phục Hy (thủy tổ giống người da vàng phương Nam) cách nay hàng vạn năm..(?) sau đến Tây Chu (bên Tàu)- khoảng 1100 năm TrCN, Vua Văn Vương mới đặt tên Quẻ- chua ý Quẻ: gọi là Thoán, đến Chu Công (con trai Văn Vương) lại viết thêm ý hào từ... Tiếp đến KhổngTử (551-trCN, nước Lỗ) lại soạn ra 6 thứ: tượng, văn, hệ, thuyết, tự, tạp (+quái)... Người Trung Quốc đã phát triển Kinh Dịch và dụng để Chiêm sự thế theo cách “bói dịch” (tức suy đoán) còn cách dụng như thế nào bớt “tùy biện” đi, thì không có sách nào chỉ một cách tường tận hoặc cố định. Cho nên chỉ cần hai kí ngôn vạch-chấm (dương- âm) mà có thể viết và luận bình ra thiên kinh vạn quyển, rất thú lạ! Bàn về nguồn gốc thì cứ nói thuộc Trung Quốc, nhưng “xét về biến cố lịch sử và hình tích Văn hóa Đông Sơn” thì ta thấy có lẽ xuất xứ gốc Kinh Dịch là của Việt Nam từ thời Hồng Bàng mà Kinh Dịch là bảo khí của Kinh Dương Vương- Càn chi- thủy tổ Việt- Ngài húy là Lộc Tục, anh của Lộc Linh, vốn có tài biến hóa, không tham đất rộng, nhường cho Lộc Linh làm vua phương Bắc, còn mình chỉ làm Vua phương Nam từ Động Đình Hồ dọc Trường Giang trở xuống... (PVH).



“Gẫm” trong Sấm vọng lưu truyền
lần theo con tạo gắng tìm tuệ kinh
“Cửu thiên”(1) sáng rạng cung đình
“Nhật hồng ”(1) sao lại minh minh mù mù
“Cơ trời lâm trận mê đồ” (2),
khốn thay non Việt dị hồ ngửa nghiêng?
**
mấy ai“xét” việc thiên niên
mà không sử sách khui tìm thiện căn
mấy ai hóa giải kiến văn
mà không kiến giải lê dân bụi lầm
dạy rằng “ôn cố tri tân” (3)
nhìn xa thửa lối... nhìn gần thửa đi...
ví như tiếng vọng ầm ì...
chân trời mây phủ liệu thì bão giông..?
ví như mưa gió bịt bùng
nắng xiên... ắt có cầu vồng thất tinh..?
phút giây vẫn bảo là nhanh
triệu năm một khắc vô tình bỏ qua..?
chẳng ai không trẻ đã già
âm dương thái dịch sinh ra trạng hình...
**
mới hay chung? thỉ? ngọn? ngành?
mà nên Bát Quái- Dịch Kinh lưu truyền
đã nghe luận giải thì- phen
ngọn nguồn Kinh Dịch vẫn tìm chưa ra
rằng Kinh Dịch của Trung Hoa
nhưng sao gốc tích lại là Việt Nam?
đem ra kiến giải luận bàn...
tưởng như vớt giải khói loang lam chiều?
nghiêng ly cụng cốc vèo vèo
bao năm trắc dịch suy siêu lạc loài
tầm nhìn đích ngắm đà sai
một ly một dặm chệch ngoài biển xa?
Có gì phân biệt tàu ta
lấy gì để nói của nhà thửa nên?
chiều tà phủ bóng đêm đen
còn kia Chim Lạc lộ then Rồng Vàng!
**
“Nước non từ thuở Hồng Bàng
bể dâu cuộc thế giang sang đổi vần
Trải Đinh Lê Lý Trần giữ nước...
đã bao lần ngôi nước đổi thay
Núi sông Thiên định đặt bày
Đồ thư một quyển xem nay mới rành
Hòa đao mộc lạc, thập bát tử thành”(4)
**
lật trang sử chiến dã tranh
mấy ngàn năm trước tung hoành ra sao?
Cho hay sóng vỗ ba đào
màn thâm sơn thủy thấp cao lại về...
Đông Nam Tây Bắc phân kỳ
Quốc gia sinh? diệt? quần nghi “dê đàn”...
một Tần khởi đất Hàm Dương
giới biên ngót triệu kilô- vuông Sở Hùng
kiếm côn bá đạo bão giông
tính kiêm sáu nước(5) vẫy vùng dọc ngang
lập ra Hoa Lục Trung Nguyên
trải bao triều đại thay quyền đọat ngôi
ngàn năm bành trướng chuyển rời
mà nay rộng lớn gấp mười lần hơn!?
nghề ăn cướp được suy tôn?
ấy nghề ăn cướp chiếm chôm đất- người..!
ngỡ câu khái quát nực cười
mà là sự thực muôn đời đẻ ra...
thưa rằng văn minh Trung Hoa?
thì văn minh ấy chỉ là... lăng xâm!
(bây giờ là một Trung Quốc ngót 10 triệu km2, dân số~ 1,3tỷ, hiểu rằng: xưa quen bá đạo đồ vương, anh hùng gây cảnh chiến trường mà nên; mấy ai hiểu được căn nguyên, phải là: dân ý- nhân quyền- tự do!)
**
lại xem đất Việt người Nam
địa danh Lưỡng Quảng Giang Nam có thừa?
hơn ba triệu kilô-vuông xưa
bao phen loạn lạc gió mưa hoành hành
ngàn năm chống chọi Bắc xâm
cụm về cố thủ Cửu Chân- Tống Bình(6)
xưng danh con Lạc cháu Hồng
mười lần nhỏ lại muôn phần xót xa?
(nay chỉ là một Việt Nam hơn 300 ngàn km2 đất, dân số 80 triệu)
thời gian chẳng trẻ chẳng già
vẫn còn khói lửa trên toà Luy Lâu(7)
hỏi ai? Ai? cướp của nhau
cảo văn? thư khố? ...ngọc châu ai giành?
cướp của người làm của mình
vốn nghề xâm lược đã thành thói quen...
tài năng cẩm tú thì- phen
còng tay- khóa- trói bắt đem công triều
thông tin bịt miệng đủ điều
cướp cướp? mất mất? bấy nhiêu phũ phàng..?
Ví như cung điện Thiên An(8)
của người Nam Việt Đình làng chế ra...
miệng đời nói ấy Trung hoa
sao không biết nói của ta đình làng?
trống đồng ta đánh lừng vang
làm sao chống được bạo tàn lắm phen
cho nên Nam Bắc trắng đen?
Kẻ quen ăn cướp... Người quen chạy dài...
ngàn năm xưa- dám nói sai?
chứng nhân- chứng vật- hình hài huyết chi..!?
giặc vào lấy hết... đem đi...
Dịch Kinh- Quốc Bảo nghiệm suy cũng là...
**
Than ôi khí vận yên hà!
hồn xửa trắc ẩn thấm xa muôn trùng
Tàng thư Nam Việt rỗng không
chỉ còn khắc quẻ trống đồng(9) làm tin...
đầu Càn “hanh lợi nguyên trinh”
Lý Càn- Nhân- Cách(10) dưỡng sinh giống nòi
ngữ ngôn “vật khí” thay lời
Đồng nhân quây lấy mặt trời đúng tâm
biểu nghi Chấm- Vạch(11) làm vần
“thụ căn diểu diểu” dương âm lập trình
cơ quyền còn chút kiện hanh
tự tôn mười tám bản danh công đường
Càn Vương tức Kinh Dương Vương
chữ đầu tiên khởi cội nguồn nước Nam
Cách nay hơn: năm ngàn năm..?
là người biến hóa tiếng tăm lẫy lừng
Khảm Vương là Lạc Long Quân
thuận hành bát quái... thuộc vần cửu cung
lại xưng... Giáp Ất... đủ vòng...
làm thành mười tám đời Hùng(12) nối nhau...
(Lần lượt <8tự quái>: Càn Vương, Khảm Vương, Cấn Vương, Chấn Vương, Tốn Vương, Ly Vương, Khôn Vương, Đoài Vương...
<10 thiên can>:Giáp Vương, Ất Vương, Bính Vương, Đinh Vương, Mậu Vương, Kỷ Vương, Canh Vương,Tân Vương, Nhâm Vương, Quý Vương)

thần cơ dịch số cơ màu
“sa phù dĩ chỉ” đời sau chớ lầm...
Rõ ràng “mộc biểu thanh thanh”
“Thập bát tử thành”(18) tiên tổ đã gieo?
“Toàn thư sử ký” (13) cũng nêu
“Đông A nhập địa”... gặp nhiều tai ương!
cho hay khí dịch đoạn trường
phải chờ “ma quỷ dọn đường” (14) loé ra..?
**
Xem thêm dã sử nước nhà
“Lĩnh Nam chích quái” (15) truyền qua miệng đời
dân man hay bị lọc lòi
quỷ ma xâm hại buông lời rủ rê
Long Quân thường phải trở về
cứu dàn con dại trăm bề khốn nguy
diệt xương cuồng diệt hồ ly(16)...
nạn từ phương Bắc chi chi... thực thà...


**
ngàn năm xưa ngỡ rất xa
chẳng qua khép lại bóng qua một ngày
luận thời ai biết ai hay
tháng năm con cháu ngày rày đã quên..!
văn nhân sĩ tử mọi miền
hãy đem chớp mắt nối liền ngàn năm
mới hay Kinh Dịch trữ tàng
gốc từ bảo khí Hồng Bàng Rồng Tiên!?
----------------------------------------------------(Lys.T.T)*
Chú thích:


(1)Nguyên văn Sấm Trạng: “Sáng cửu thiên ám vầng hồng nhật”-trên trời sáng mà trần gian hàng ngày sao tối tăm thế!;

(2)Sấm Trạng: ý nói trời mở cơ làm thiên hạ mù mịt, không rõ lối mà đi, người dân như lâm vào mê cung;

(3)Lời dạy của Khổng Tử :“ôn cố tri tân, khả dĩ vi sư”: thông hiểu sử sách, việc cũ để biết cách thức hệ quả... nên làm thời nay, việc mới ra sao? thì có thể làm thày;

(4)Một đoạn mở đầu trong một bài Sấm Trạng Trình; (5)Năm 221TrCN Tần Thủy Hoàng kiêm tính 6 nước gồm: Sở, Tề, Triệu, Ngụy, Hàn, Yên- thống nhất Trung Quốc quy mô khoảng gần 4 triệukm2;

(6)Cửu Chân chỉ Thanh Nghệ ngày nay;Tống Bình chỉ đất Hà Nội tên gọi thời cổ khoảng năm 800 TrCN;

(7) Luy Lâu tên cổ chỉ Bắc Ninh ngày nay;

(8)Cung điện lớn nhất của Trung Quốc xây dựng vào thời Minh khoảng thế kỷ XIV, do Nguyễn An- một thợ cả tài hoa của Việt Nam bị giặc Minh bắt- ông làm tổng công trình sư thiết kế và xây dựng;

(9)Bát Quái được cho là đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ- Hoàng Hạ thuộc văn hoá Đông Sơn Việt Nam, các nhà khảo cổ tìm được ở Thanh Hoá, đồng bằng Bắc Bộ;

(10) Trên trống đồng có khắc các quẻ Thuần Càn, Đồng Nhân, Cách- đúng như nhà NC Nguyễn Thiếu Dũng xác định;

(11)Thực chất ký quái đầu tiên là Chấm và Vạch, biểu nghi hai khí Âm- Dương, khi viết nhuận tay hơn, nhưng sau này người ta (có thể là Văn Vương) thấy nét chấm dễ bị mờ khuyết, mới đổi chấm sang vạch đứt;

(12)Theo phả tịch Đền Hùng còn ghi đến nay đủ 8quái và 10thiên can;

(13)Sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, viết vào thời Lê Thánh Tông (1460-1497);

(14)Sấm Trạng Trình nguyên văn “trời sinh lũ quỷ dọn đường, để cho thánh xuất khảm phương sau này”; (15)Lĩnh Nam chích quái: truyện cổ dân gian Việt Nam tác giả là Nguyễn Qùynh và Kiều Phú biên soạn vào thế kỷ XV có viết “Than ôi! Lĩnh Nam liệt truyện có phải chỉ riêng khắc vào đá, viết vào tre, mới là quí hơn bia miệng đâu? từ đứa trẻ hoi sữa đến cụ già bạc tóc, đều truyền tụng để tỏ lòng yêu dấu, để tỏ ý chê trách thì tất là có quan hệ tới cương thường phong hóa..!”;

(16)Truyện xương cuồng tức là Mộc tinh, Hồ ly tinh, Ngư tinh, là những truyện trong Lĩnh Nam nói về công lao của thuỷ tổ Việt Nam (Lys.T.T)./.

Truyện phụ thêm:
Đã từ lâu, nhiều người cứ băn khoăn về câu hỏi tại sao xưa các “bậc Nam kiệt” cứ gọi người phương bắc, các “bậc hảo Hán” tức người Tàu là “Các chú”- lúc sẵng giọng thì “ôi dào! bọn các chú” có nơi chuyển âm thành “cắc chú”, chê họ thâm hiểm; Lại nhớ rằng hồi nhỏ nghe các vị túc nho rành rọt chữ nghĩa kể về chuyền tiên tổ Hồng Bàng mới biết rằng sở dĩ gọi như vậy là vì người Nam và người Bắc vốn tổ tiên xưa cũng là anh em, mà người Việt là anh và người Tàu là em đích thị. Cụ thể là cháu ba đời của Viêm Đế- Thần Nông theo lệnh trời, và cha mình làm Vua toàn cõi, khai sinh loài người, theo lời cha dặn dạy giống người da vàng phương đông trồng lúa- Ngài Biểu danh là Đế Minh. Ngài lấy bà Vụ Tiên- một vị nữ tiên ở thượng giới, sinh được hai người con trai, lớn là Lộc Tục, nhỏ là Lộc Linh. Khi già về trời, Đế Minh định truyền ngôi cho con trưởng là Lộc Tục, làm vua phương Bắc, cho Lộc Linh làm vua phương Nam . Nhưng Lộc Tục nói với cha, phương Nam nóng nực, có nhiều chướng khí, đất đai hẹp hơn, dân sự ít lại ham chơi, xin nhận khó khăn làm vua thay em, để Lộc Linh kế ngôi ở phương Bắc, đất đai rộng lớn, dân sự phồn thịnh hơn, thuận tiện cho em hơn. Đế minh cho là người nhân hậu, ngài chấp nhận. Sau đó Lộc Linh lên ngôi làm vua phương bắc, trông coi từ tả ngạn sông Trường Giang trở lên, lấy hiệu là Đế Nghi. Lộc Tục làm vua phương Nam, từ hữu ngạn sông Trường Giang trở xuống, thủ phủ ở Động Đình Hồ, lấy hiệu là Kinh Dương Vương, Miếu hiệu là Càn vương, Ngài hay đi đây đó, sống rất phóng túng, biến hóa không biết đâu mà lường. Ngài lấy con gái Thần Long Động Đình hồ mà sinh ra Sùng Lãm, Lãm kế ngôi, tự xưng là Lạc Long Quân, tài giỏi như cha, đi dưới nước như đi trên cạn, Miếu hiệu là Khảm vương... nghi biểu theo quái dịch. Sau Lạc Long Quân lấy con gái Thần Núi Đế Lai là bà Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng nở ra trăm người con trai... là tổ tiên người thuần Việt ngày nay...
Nhiều lần tôi kể lại và giải thích cho mọi người nghe, cố tìm trong sách để dẫn, nhưng các sách thông sử thời nay viết về Hồng Bàng thị lại nói, Lộc Tục là em, Đế Nghi là anh? thậm chí không có cả cái tên “Lộc Linh”. Sách “Lĩnh Nam chích quái” xuất bản 1990- nhà xuất bản văn học, cũng nói vậy! tôi cứ băn khoăn mãi!.. Tết 2010, đi du xuân, thắp hương Đền Hùng, tôi mua quyển “truyền thuyết Hùng Vương- thần thoại vùng đất Tổ” do Vũ Kim Biên sưu tầm biên soạn, xuất bản 2008, tôi thấy câu chuyện trở lại đúng với truyện hồi nhỏ tôi được nghe... Vậy là hơn 50 năm mới thấy mình không phải là ốc xạo với bạn bè con cháu. Ôi! Dã sử vẫn có giá trị ở chỗ đó! thiện tai, nam mô phật!.
(PVH)



Bài chiêm soạn cho năm 2012-1013
Kiến trúc sư Phạm vũ Hội
Xưởng kiến trúc tạo hình Hải Phòng
Thân gửi: Ông Bùi Quốc Hùng- Bút danh DIENBATN
Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương
Bài chiêm để đăng tải về nghiệm lý Sấm Ký Trạng Trình
(tiếp tục với hư thực muôn đời 1-2)
(E-mail:
dienbatn@yahoo.com)
Nhâm Thìn diễn nghĩa- 2012
1-Thiên tượng

Gập ghềnh muôn thác vượt lên,
chọn thì “lợi thiệp đại xuyên”vu tòng
Rồng bay “bảy sắc” cầu vồng,
lấy nước “bối pháp” chiêu dòng trường xa
thiện phùng nhân nghĩa bước ra,
để xua quỷ quái yêu ma hại người
“đoài phương phúc địa” sáng soi,
âm dương tiêu tức đất trời chuyển xoay
chấn cung khói bụi giăng đầy,
“giang hồ sử sĩ” điều ngay hiệp bàn
khảm nghi quy tử quy hàng,
“nắm cơm bầu nước” tỉnh tang dần dần
bui lòng hanh chuộng quyền nhân,
đạo trong thiên hạ thăng trầm tự nhiên
2-Nhân sự
loạn ru bởi vẫn cuồng điên,
trùng lai hiểm dã dược tiên trị đời
tự do dĩ đạo làm người,
cộng sinh dĩ đạo ông tôi nhân quyền
“báo thù báo phục” đã phen,
“non xanh căng trắng” chuân chuyên đã nhiều
“đồng khô hồ cạn” họa thiêu,
“lông chìm đá nổi” bao điều lạ tai
ầm ào đạn súng trong ngoài,
nước sôi lửa bỏng giêng hai dập dồn
bốn năm sáu bảy ta ương,
“thần quy cơ nỗ” khôn lường hiểm nguy
“ba ngày trói” chặn đường đường đi,
cháy nhà ra ngõ đông kỳ thoát thân
3-Thiên tặc
Phong lôi chuyển động canh luân,
nóng khô trộn với mưa dầm thối thây
Phát ban cảm sốt chầy chầy,
cấn khôn phân vị bão dây tuyết dồn
chấn cung bốc lửa đạo ôn,
cây khô lá héo người còm đói ăn
hai ba cứu giúp nhì nhằng,
vận thì sóng quật đất quăng chẳng thường
bởi đâu mà lắm tai ương,
bởi chưng hút sạch “huyết tương địa cầu?”
“đến thời thịnh vượng còn lâu?
” hiểu rằng “tam hợp chia sau” ắt là!
Phạm Vũ Hội-14-12-2009
(28-10 Kỷ Sửu)

Quý tỵ diễn nghĩa- 2013
1-Thiên tượng

thói đâu thệ thói đàn bà,


“nữ công thực bắc” lại là đàn ông
trời lùa kể cũng bất công,


làm cho lộn ngược cửu trùng mà cam
chỉ quen học nói học bàn,


ít cảnh lam làm, lắm cảnh ba hoa
chừng con rắn nước bò ra,


quay đầu lột xác quả là khốn nguy
“tượng trời gia trước” nhiều khi,


“đã đàn cửu khúc còn thi thơ đề”
đến thời ích lý u mê,


anh hùng quyết quyết đường về gặp cha
“xà đầu long vĩ” chuyển qua,


ngựa hồng bảy sắc nhảy ra trình làng...
2-Nhân sự
năm dương vượng khí dâng tràn,


một âm thượng lục bẽ bàng nãi chung
nhìn lên bắc khí thuần hung,


“đại lai tiểu vãng” nhịp cùng thế gian
giêng hai súng nổ đôi đàng,


“một còn... hai mất” ngón đàn thực chi
càn khôn “chính vị phân kỳ”,


ba tư năm sáu ngược đi xuôi về
chấn ly hiệp hội địa kê,


“trùng hưng dĩ bốc bên lề mã giang”
phím trầm tích tịch tình tang,


thiên cầm mượn gió so hàng vũ văn
hết thời “nhị ngũ nhị phân”,


“đông tàn tây bại” chắp vần họa tai...
3-Thiên tặc
đông phương gió lửa ra bài,


nóng khô năm trước kéo dài năm sau
khí trì- dịch bệnh ốm đau,


làm cho nhức trán tê đầu rối ren
hỏa thiên hỏa địa hạo nhiên,


núi rung đất sập bể chìm sóng reo
đói ăn thiên hạ bao nghèo,


thần cơ lặp lại những điều nghĩa nhân
đoài phương tuyết dải mưa dầm,


thành trì có lúc tối tăm mịt mù
tứ phương khốc nạn ngoạn du,


họa vô đơn chí linh phù tái biên
Phạm Vũ Hội-14-12-2009
(28-10 Kỷ Sửu)


Phạm Vũ Hội có thơ chiêm rằng:
(Bài 2 tiếp theo kỳ trước...)

“kim kê khai lựu” là đây,


đồ rằng non nước tới ngày mát trong
ngờ đâu đục nước ngược dòng,


nào ai thoát khỏi được vòng kim cô
muông sinh có mắt như mờ,


kẻ say kẻ tỉnh bơ phờ lạ thay
hung hăng tranh cạnh ngày ngày,


“quý phương hoàng cái” từ nay thảm sầu
“thụy trình ngũ sắc” cơ màu,


thùy vi nhân nghĩa đạo đầu: dữ đương!”
“tộ truyền nhị thập” tai ương,


“ngũ diên vận khải” bất tường nhân gian
“danh vi gia tử” họ hàng,


“ngưu lang bản tính” đại gian bản thần
Đúng là “danh thế nan lường”,


“thủy trung bảo cái” chính phường sát nhân
Đúng là ma quỷ hiện hình,


tiểu nhân đắc ý lộng hành đế vương
Làn cho “bách tính tai ương”,


“can qua tranh đấu” chiến trường hồn oan
“quần gian phạm địch hung hoang”


“ma vương đại quỷ” ám tàng hoàng thiên!
Than ôi Sấm ký đã truyền,


mà sao thiên hạ mãi nhìn chẳng ra
“rừng xanh núi đỏ bao la,


đông tàn tây bại sang gà mới yên...
sửu dần thiên hạ đảo điên,


ngày nay thiên số vận niên rành rành!”
điềm trời thủy động địa sinh,


thăng trầm tới bước chuyển mình chẳng sai
sau khi hết thế chiến hai,


Pháp đã tính bài trở lại Đông Dương
đầu tiên quay lại Việt Nam ,


nhân danh kẻ thắng trong làng Đồng minh
núp sau Anh quốc điều đình,


không công nhận nước Việt minh nắm quyền
Việt Nam mở trận thư hùng,


chín năm binh lửa cuối cùng Pháp thua
“càn khôn cửu cửu” có thừa,


“thanh minh thời tiết” cũng vừa đúng niên
ngọ mùi quân “nhập Tràng An”,


“hồ binh đủ tám” sư đoàn tiến vô...
cho hay thế sự biến cơ,


từng câu Sấm ký chẳng ngờ một ly
cứ đem Sấm Trạng ra suy,


bao nhiêu sự kiện sự gì chẳng hay?

nhiễu nhương thời thế đổi thay,


thiên cơ khéo đã phơi bày cả ra
nghe lời càng thật thiết tha,


“thời trung quân tử” khuyên ta giữ mình
“âm dương cơ ngẫu ngộ sinh,


thái nhâm thái ất trong mình có hay?”
trước là giữ được điều ngay,


sau là nuôi chí chờ ngày góp công
sang giàu đố kị tham lòng,


“lưới chài đâu dễ” mà công cán gì
“đừng nên bội bạc nghịch vi”


ích gia phì kỷ dân thì khốn thay”
lời khuyên vẻ rạng đường mây,


cho ai biết lối đến ngày thửa ân...

từ ngày Trịnh- Mạc kỳ phân,


“sương sâm tuyết lạnh muông dân dập vùi”
“đàn dê tranh phá đôi nơi”,


quân thần tá sứ càng đồi hung hăng
đến khi thế kiệt lực cùng,


“kẻ ngàn Đông hải, người rừng Bắc lâm”
liên miên binh lửa cát lầm,


“kẻ nằm đầy đất người trầm đầy sông”

nhớ khi lánh nẻo đường trong,


Nguyễn Hoàng chèo chống một vùng trời Nam
đợi thời tu dựng nghiệp vương,


những mong Nghiêu Thuấn Ngu Đường có phen
bỗng đâu “sừng sực Tây sơn”


“mười bốn năm trường” sấm sét chuyển rung
nước non ngàn trận thư hùng,


vẻ xanh muốn rạng Lạc Hồng muốn nên?
chỉ trong gang tấc lâm tuyền,


“kiến nhân rời tổ... phụ nguyên” sinh hồi
bấy giờ rộng mở quy khôi,


thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
Hà Tiên tới Mục-Nam-Quan,


nước non một dải kim quang ngõ hầu
Gia Long ấy chẳng sai đâu,


“mặt rồng lồ lộ trên đầu chữ vương”
“thiên sinh tai lạ khác thường,


Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài”
tuất hợi “điều đỉng độ mai”,


Việt Nam là chữ so bài dài lâu...

thoắt đà tám chục năm sau,


Việt Nam lại mắc vào cầu ngoại xâm
ấy là giặc Pháp dã tâm,


từng đi xâm chiếm xa gần đất đai
đạo truyền mượn cớ vãng lai,


đường đi đã tỏ trong ngoài đông lân
đợi khi triều Nguyễn suy dần,


thừa cơ súng nổ quyền thần bó tay
thiên cơ quy nỗ vần xoay,


nước Nam lại chọi với bầy thực dân
bừng bừng kháng chiến duy tân,


độc lập dân tộc quốc dân dựng cờ
được thua ai dễ khôn dò,


lời truyền Sấm Trạng có thừa trăm năm
“ngựa hồng quỷ mới nhăn răng,


cha con dòng họ thày tăng hết thời”
truyền cho đừng lẫn sự đời


“nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu”
“chín con rồng lộn” mỹ miều,


luận cho ra nhẽ rặt điều trái tai!
lại còn dắng dẻ một hai,


“cuộc tàn mới rõ rằng tàu thấp cao”
thấy Sấm từ nay chép vào,


một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa?”
con Hồng cháu Việt đường xa,


thịnh suy nào hiểu cho ra lối đời
đắn đo Sấm lại thêm lời


“hiểu xuôi cũng được ngược thời mới nên!”

Than ôi tạo hoá u huyền,


nào ai biết được biến thiên những là...
vả chăng mà dám nói ra,


nói ra thì bị quỷ ma tội hình
trăm năm vùi dập sinh linh,


một thiên hạ dại riêng mình ta đâu?
“chờ cho nhân doãn đến sau,


đến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
trời xui những kẻ ác gian,


kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
vua nào tôi ấy đã bày,


trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn”
đến khi hết lẽ khuyên can,


biết rằng chẳng được lòng càng tai tê
“thôi thôi mặc lũ thằng hề,


gió mây ta lại theo về gió mây!”
(Phạm Vũ Hội)

Chú thích

1)-chữ”thửa”dùng trong Sấm Trạng theo văn nghĩa cổ là làm cho mình; thí dụ: thửa cái áo mà mặc; hoặc làm cái gì cho vừa vặn:thửa đôi giày, thửa cái nhẫn; hoặc kiến giải điều gì cho đạt ý: thửa nên...thửa chăng?; hoặc so sánh: công lênh phụ mẫu thửa ấy ai bằng?;

(2)-người Đoài:chỉ người ph.Tây, kẻ Sở: chỉ người ph. Đông- cách nói theo tích Đông Chu liệt quốc, vì nước Sở nằm về phía đông Bành Thành: kinh đô nước Tần;

(3)-Giáp Ất Bính Đinh: là các năm1954,1955,1956,1957, Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Định Dậu, chính quyền miền Bắc bắt tập trung sách dưới thời Phong kiến- Thực dân gồm chữ Tây, chữ Nho đem đốt hết, ai không nộp cất dấu thi bị bắt giam hoặc đấu tố;(4) “Hùm già lạc dấu”: Giáp Dần 1914:Thái tử nước Ấo và vợ bị mội thanh niên Bôsnia giết ở Bôsnia trong 1cuộc bạo động, người chỉ huy là một người Secbia, không liên quan đến chính phủ Secbia; nhưng Ấo lấy cớ, tuyên chiến với Secbia, Nga bênh Secbia, Đức bênh Ấo, Pháp nhảy vào cuộc, Đức tuyên chiến với Nga, Pháp; Anh hòa giải không được... diễn tiến thành Đại chiến thứ nhất (WW.I) cho nên nói là “lạc dấu khôn về”, Hùm là năm con hổ, chữ Giáp- thuộc can dương- mộc nên nói là “Hùm già”;trường hợp chữ Ất- thuộc can âm mộc, nên Ất Mão là mèo non “mèo non chí chí tìm về cố hương”;(5)-Sau WW.I- Ông Wilson Tổng Thống Hoa Kỳ đã có ý lập Hội Quốc Liên (Hội vạn quốc) nhằm bênh vực độc lập tự do cho tất cả các quốc gia, không phân biệt lớn nhỏ- chung sông hòa bình, mãi đến 1945 mới chính thức thành lập, nay là Liên Hiệp quốc.
PVH


dienbatn giới thiệu .
 
 đặt làm đồ thờ sơn son thếp vàng truyền thống